Phân tích bài Đất nước đoạn 1 - Bài mẫu 4. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào
d) Phần lớn diện tích nước Việt Nam có mật độ dân số A. dưới 5 người/km2. B. từ 5 đến 25 người/km2. C. từ 26 đến 250 người/km2. D. trên 250 người/km2.
Mẫu kết bài phân tích đoạn thơ Đất nước 2. Đất Nước là một đoạn trích hay nhất trong trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm. Thi phẩm ấy không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn qua đó nói lên được tiếng nói của người công
Đề: Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp t
2. Trường hợp trong khu vực đất thực hiện dự án quy định tại khoản 1 Điều này có diện tích đất do Nhà nước quản lý mà không tách thành dự án độc lập được thì Nhà nước thu hồi để giao, cho thuê cho nhà đầu tư. 3.
flOBkZF. Tài liệu khóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ bài Phân tích đoạn “Khi ta lớn… có từ ngày đó”.Gợi ý bài làm A. Mở Bài“Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biét bao bài thơ rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thương yêu. Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm, trong phần đầu chương “Đất nước” – trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình Thân Bài1. Vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn Khoa điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, quê gốc ở thành phố Huế. Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức Cách mạng, cha là Nguyễn Khoa Văn tức Hải Triều nhà lý luận phê bình văn học theo quan điểm Mác xít trong giai đoạn 1930 – 1945. Sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm vào miền Nam tham gia cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, dồn nén thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị ở thành phố Huế, rồi làm Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam khóa V, Bộ trưởng Bộ văn hoá thông tin. Từ năm 2001 đến năm 2006, ông là Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng, Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương. Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm phẩm chính “Đất ngoại ô” tập thơ - 1972, “Mặt đường khát vọng” trường ca – 1974, “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” 1986, “Cõi lặng” 2007.Đoạn trích dưới đây thuộc phần đầu chương V, có tên “Đất nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, đứng về nhân dân, đất nước; ý thức được xứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 1Tài liệu khóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm Đất nước có từ đâu? Đất nước là gì?“Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồiĐất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”“Như nước Đại Việt ta từ thuở trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc – Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son; về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước“Ta như thuở xưa thần Phù ĐổngVụt lớn lên đánh đuổi giặc ÂnSức nhân dân khoẻ như ngựa sắtChí căm thù ta rèn thép làm roiLửa chiến đấu ta phun vào mặt – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 2Tài liệu khóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ sát nhân cướp nước hại nòi”Tố Hữu Nghĩa là, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta. Đúng như Nguyễn Duy đã viết“Tre xanh, xanh tự bao giờChuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay“Tóc ngang lưng vừa chừng em búiĐể chi dài bối rối lòng anh”ca dao cổĐất nước Việt Nam mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp“Tay bưng đĩa muối chén gừngGừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”Hay“Muối ba năm muối đang còn mặnGừng chín tháng gừng hãy còn cayĐôi ta tình nặng nghĩa đầyDù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng” nhân dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào“Cày đồng đang buổi ban trưaMồ hôi thánh thót như mưa ruộng càyAi ơi bưng bát cơm đầy – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 3Tài liệu khóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ thơm một hạt đắng cay muôn phần”Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã; có khi lấy từ tên những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ của chính mình đang ở “cái kèo, cái cột”… Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, dễ làm lay động trái tim hàng triệu độc đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế từ vựng ông, bà, cha, me gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó cũng là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như chú Năm “con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” Những đứa con trong gia đình.C. Kết luậnTóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn hoá dân gian, truyền thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện viên Nguyễn Quang – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 4
Đề bài Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmCó thể bạn quan tâm Dàn ý nghị luận về câu nói Cuộc đời không phải là đường chạy… Vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu Dàn ý trình bày suy nghĩ về tính trung thực của con người Bình luận những ý kiến đánh giá về Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh Cảm hứng thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng trong bài Tây Tiến Bạn Đang Xem Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Văn mẫu phân tích phần 2 của bài Đất nước chọn lọc 1. Mở bài – Giới thiệu tác giả– Giới thiệu sơ qua về tác phẩm 2. Thân bài * Khái quát qua về phần 1 đất nước được cảm nhận qua phương diện lịch sử, chiều sâu không gian và thời gian– Đất nước có từ bao giờ ?– Định nghĩa về đất nước Xem Thêm Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ* Phần hai Đất nước của nhân dân– Tất cả những gì của đất nước không chỉ là của thiên nhiên tạo ra mà là những phẩm chất tốt là một phần máu thịt của những người dân– Tình yêu thương sự thủy chung son sắc mà ta có “hòn Trống” “hòn Mái”– Nhờ có truyền thống hiếu học mà ta có “núi Bút” “non Nghiên”– Nhờ có tình yêu quê hương đất nước tinh thần bất khuất, lòng dũng cảm mà ta có những di tích lịch sử về quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước…Còn tiếp >> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích phần 2 của bài thơ Đất nước tại đây. II. Bài văn mẫu Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Chuẩn Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những sáng tác của ông nổi bật với phong cách thơ đậm chất chính luận và trữ tình với cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng. Trường ca “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên nhằm mục đích thứ tỉnh thanh niên đô thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh với cuộc chiến chống Mỹ. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong chương năm của đoạn Trường ca và một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước. Mở đầu đoạn trích tác giả đã có cảm nhận mới mẻ về quá trình hình thành đất nước. Đất nước hình thành một cách bình dị gần gũi và gắn bó với cuộc sống hàng ngày, đó là những câu truyện cổ tích, hay những câu ca dao, những phong tục của người dân, đất nước. Trong khổ thơ thứ hai, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cách cảm nhận mới lạ mà cũng quá đỗi bình dị về hai tiếng Đất nước. Đất nước là gì? Đất nước là những thứ gần gũi với chúng ta, là con đường ta đi học là lớp học chúng ta ngồi là bến nước em tắm là cây đa giếng nước là sân đình làng là không gian riêng cho đôi lứa yêu nhau. Đất nước còn là sự hòa quyện cá nhân với cá nhân với cộng đồng, đất nước là sự hòa quyện giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu tổ quốc. Đất nước là những truyền thống đẹp là nơi gần gũi với mỗi con người chúng ta, đất nước là máu xương là huyết hệ, là thân thể ruột thịt, là những gì ta bảo vệ dù cho có phải hi sinh tất cả. Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân là chủ nhân của đất nước là người gìn giữ bảo vệ và xây dựng đất nước. Để làm sáng tỏ tư tưởng đó tác giả đã xem xét thật kỹ các tầng địa lí, lịch sử, văn hóa đất nước để chứng minh được nhân dân là người làm ra đất nước ở không gian địa lý. Nguyễn Khoa Điềm đã ngắm nhìn đất nước qua những danh lam thắng cảnh trải dài khắp đất nước. Tất cả các địa danh đó đều gắn liền với những di tích lịch sử một sự thật mà lịch sử đã chứng kiến. Nói cách khác đấy chính là những huyền thoại những sự tích sự thật lịch sử về nội dung đã làm lên địa danh đó biến chúng trở thành những danh lam thắng cảnh những di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến nó, là người vợ nhớ người chồng đã lên núi “Vọng Phu”, là những vợ chồng yêu nhau ghép lên hòn Trống Mái, những người học trò nghèo đã tạo nên những núi Bút non Nghiên hay những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm đã đóng góp công sức tạo lên những địa danh mang tên mình. Xem Thêm Mở bài truyện Hồn Trương Ba da hàng thịtTrong cảm nhận của nhà thơ mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là nét vẽ tô điểm cho đất nước hình chữ “S” của chúng ta mà còn là ẩn chứa trong mấy ngàn năm cho sự thủy chung tình nghĩa vợ chồng, tình thần yêu nước truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm ý thức cội nguồn biết ơn những người đi trước những người có công với đất nước, tinh thần hiếu học ý chí vượt qua khó khăn gian khổ, tinh thần xả thân vì cộng đồng. Khai thác đất nước ở phương diện địa lí tác giả không chỉ cảm nhận đất nước trù phú mà cảm nhận nhiều miền đất nhiều địa danh với những cái tên dân giã. Đặc biệt nhà thơ không chỉ ngắm đất nước ở hình dáng bên ngoài mà còn nhìn sâu vào bên trong để phát hiện chính những người dân là những người làm nên những địa danh đó để từ đó tác giả đi đến kết luận mang tính khái quát. Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng khắp miền tổ quốc trên đều là do nhân dân tạo ra, đều là sự kết tinh từ bao công sức của những con người bình thường vô danh. Hay nói cách khác nhân dân chính là người tạo ra đất nước từ mọi phương diện địa lí. Với cấu trúc quy nạp nghệ thuật liệt kê động từ “góp” được lặp lại nhiều lần nhà thơ khẳng định công sức lao động làm nên những địa danh ấy. Tác giả còn khai thác trên phương diện lịch sử tác giả đã nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của nước ta để thấy nhân dân là những người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, trong bốn nghìn năm lịch sử có những mốc son chói lọi do các vị anh hùng như Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Huệ… không chỉ những anh hùng nổi tiếng tác giả còn nói đến sự hi sinh âm thần của những người vô danh họ có thể là những anh lính họ hi sinh tuổi thanh xuân để bảo vệ đất nước họ đã nằm lại chiến trường họ không tên không tuổi nhưng họ cống hiến hết mình cho tổ quốc, hay là những người ngày đêm hăng say lao động sản xuất. Họ làm nên đất nước bằng cánh chuyền cho ta những giá trị vật chất, tinh thần bằng lúa gạo, tiếng nói, ngọn lửa, bản sắc văn hóa dân tộc. Họ là những người đấu tranh chống giặc ngoại xâm để tạo dựng chủ quyền xây dựng nền móng cho các thế hệ mai sau và các thế hệ sau này thay nhau gìn giữ đất nước và phát triển đất nước. Nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân trong việc gìn giữ những truyền thống văn hóa để làm nên một đất nước đẹp. Giọng điệu nhẹ nhàng linh hoạt khi thì thủ thỉ khi thì trang nghiêm sử dụng tốt những chất liệu văn hóa, dân gian và có sự hòa quyện của chính luận và trữ tình đi sâu vào trong tâm trí của người đọc, phần hai của đoạn trích Đất nước không chỉ lí định nghĩa Đất nước mà còn thể hiện quan niệm của tác giả về tư tưởng Đất nước của nhân dân. ———————HẾT—————— Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mang đến những quan niệm, cảm nhận mới mẻ về đất nước. Bên cạnh việc khám phá những nét mới mẻ này qua bài Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các em còn có thể tham khảo thêm các bài văn hay lớp 12 khác như phân tích Nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm để mở rộng vốn hiểu biết của mình. Nguồn Danh mục Lớp 12
phân tích đoạn 2 đất nước